(Tin Môi Trường) - TS. Nhà văn Trần Văn Miều, Phó chủ tịch Hội Bảo vệ Thiên nhiên và Môi trường Việt Nam (VACNE) vừa có bài viết nhằm trao đổi một số nội dung liên quan đến Tọa đàm "An ninh môi trường" của VACNE được tổ chức trực tuyến sáng 29/9/2021. Xin chia sẻ toàn văn Bài viết của Tiến sỹ.
1. Đặt vấn đề
Môi trường sống của loài
người là cái nôi êm ấm bao bọc khi con
người mới sinh ra, nuôi dưỡng con
người từ trẻ thơ đến về già, xòe bàn tay Phật đón con
người về Tây Trúc - cõi Vĩnh hằng. Môi trường sống của con
người bao gồm hai hệ thống yếu tố thống nhất biện chứng với nhau là: Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội.
Mác giải thích: “Sinh hoạt vật chất và tinh thần của con
người liên hệ khăng khít với tự nhiên, điều đó chẳng qua chỉ có ý nghĩa là vì con
người là một bộ phận của tự nhiên”. Mặt khác, Mác
cho rằng, con
người là một yếu tố quan trọng bậc nhất của Môi trường tự nhiên, con
người có mối quan hệ hữu cơ, biện chứng với các yếu tố của Môi trường thiên nhiên. Trong hoạt động sống của mình, con
người phải khai thác tài nguyên thiên nhiên để phục vụ
cho đời sống vật chất (nhà ở, đường giao thông, cái ăn, nước uống, cái mặc, dụng cụ, công cụ lao động…) và đời sống tinh thần (học tập, nghiên cứu, vui chơi, giải trí, hạnh phúc gia đình…). Quan điểm của Mác phù hợp với quan điểm phát triển
bền vững hiện đại – Con
người khi khai thác tài nguyên thiên nhiên, phải thực hiện nguyên tắc: thế hệ hôm nay khai thác không làm ảnh hưởng đến thế hệ tương lai và các thế hệ trong xã hội phải có mối quan hệ gắn bó với nhau, bổ sung
cho nhau. Bởi vì, con
người là yếu tố quan trọng nhất trong Môi trường tự nhiên và Môi trường xã hội.
Trong mọi thời kỳ cách mạng, nhất là thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, thời kỳ thực hiện kinh tế số, kinh tế tri thức, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thực hiện kinh tế xanh, tăng trưởng xanh và xây dựng lối sống xanh, Đảng Cộng sản
Việt Nam xác định cần phát triển
bền vững kinh tế, xã hội và môi trường. Trong tương lai dài, nước ta phát triển với ba trụ cột là: Kinh tế - Xã hội – Môi trường. Đây là ba nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Có nhiều nhà khoa học gọi tên
cho việc phát triển
bền vững ba trụ cột chiến lược của Việt Nam: Tam giác phát triển, rồng bay, con hổ, đại bàng… Cách gọi nào cũng hàm ý chỉ ra rằng,
Việt Nam đã trải qua nước nghèo, có thu nhập thấp; đã trở thành nước đang phát triển, có thu nhập trung bình. Và đặc biệt hơn, mọi
người có khát vọng muốn
Việt Nam như con tàu băng băng ra biển lớn;
Việt Nam như con rồng hoặc con đại bàng cất cánh bay cao, bay xa.
Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy, rất nhiều lần Chủ tịch Hồ Chí Minh kỳ vọng vào nước ta phát triển phồn vinh để sánh vai với các cường quốc năm châu trong môi trường độc lập dân tộc và giữ vững hòa bình. Mặt khác, Người đề ra hệ thống tư tưởng của mình, trong đó có những tư tưởng về phát triển
bền vững Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội. Từ tư tưởng mở đường của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chúng một tôi thiết kế hình tượng về sự phát triển
bền vững Kinh tế, Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội của nước ta. Hình tượng đó là một con chim đại bàng to khỏe, vạm vỡ, sải rộng cất cánh bay lên cao, bay đi xa. Thân chim đai bàng tượng trưng
cho phát triển
bền vững Kinh tế, một cánh chim tượng trưng
cho phát triển
bền vững Môi trường thiên nhiên và một cánh chim tượng trưng
cho phát triển
bền vững Môi trường xã hội. Con chim này muốn bay cao, bay xa cần có một cơ thể khỏe mạnh, cường tráng và đôi cánh rộng khỏe. Thiếu một cánh hoặc một cánh yếu thì con chim không thể bay cao, bay xa được.
Như vậy, Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội là nền tảng để phát triển
bền vững Kinh tế. Ba sự phát triển
bền vững trên có mối quan hệ biện chứng, hữu cơ, không thể tách rời nhau, cái này là tiền đề
cho sự phát triển
bền vững của cái khác; cái này là yếu tố quan trọng, không thể thay thế
cho sự phát triển
bền vững của cái kia; cái này là nền tảng để phát triển
bền vững cái khác. Đây là mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, không thể thay thế.
2. Về Anh ninh môi trường và mối quan hệ thế hệ người Việt Nam
2.1. An ninh môi trường
An ninh môi trường là thành tố quan trọng của
an ninh quốc gia, một phạm trù thuộc lĩnh vực
an ninh phi truyền thống. Theo báo cáo “Phát triển con người” năm 1994 của Liên hợp quốc,
an ninh phi truyền thống bao gồm 7 lĩnh vực là: kinh tế, lương thực, sức khỏe, môi trường, con người, cộng đồng và chính trị.
Một hệ thống môi trường bị mất
an ninh có thể do các nguyên nhân tự nhiên (thiên tai) hoặc do các hoạt động của con
người (khai thác cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, thải chất độc vào môi trường gây ô nhiễm, suy thoái môi trường, suy giảm đa dạng sinh học,...) hoặc phối hợp tác động của cả hai nguyên nhân trên. Trạng thái
an ninh của riêng phân hệ sinh thái tự nhiên được gọi là An ninh sinh thái, do đó An ninh sinh thái là một khía cạnh của An ninh môi trường.
An ninh môi trường là trạng thái hệ thống các yếu tố cấu thành môi trường cân bằng để bảo đảm điều kiện sống và phát triển của con
người cũng như các loài sinh vật trong hệ thống đó.
Dưới góc độ triết học, việc giải quyết vấn đề An ninh môi trường là bảo vệ môi trường sống, môi trường tồn tại của con
người và xã hội loài
người chính là bảo vệ một trong ba yếu tố cấu thành của tồn tại xã hội. An ninh môi trường không được bảo đảm thì xã hội không có sản xuất vật chất, không có đời sống tinh thần, không có sự tồn tại và phát triển.
Biểu hiện của môi trường bị mất
an ninh là: cạn kiệt tài nguyên, thiên tai thường xuyên, thiên nhiên suy thoái, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, suy giảm tầng ô zôn, biến đổi các chu trình sinh – địa, suy giảm đa dạng sinh học… Vì vậy, nếu không giữ được An ninh môi trường thì những thảm họa môi trường sẽ gây suy yếu nền kinh tế, gia tăng đói nghèo, gia tăng bất ổn chính trị, trở thành ngòi nổ
cho các bất ổn xã hội, các cuộc xung đột, chiến tranh và thậm chí hủy diệt loài người.
Ở Việt Nam, bảo đảm An ninh môi trường được coi là một trong những nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định: “Bảo vệ môi trường là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, toàn xã hội và của mọi công dân”. Khái niệm An ninh môi trường đã được đưa vào Luật Bảo vệ môi trường năm 2014: “An ninh môi trường là việc bảo đảm không có tác động lớn của môi trường đến sự ổn định chính trị, xã hội và phát triển kinh tế của quốc gia”.
2.2. Mối quan hệ thế hệ của người Việt Nam
Theo Bách khoa toàn thư mở thì “Thế hệ là cách gọi tập thể tất cả những
người được sinh ra và sống trong cùng một khoảng thời gian”.
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Lớp
người cùng một lứa tuổi, phân biệt với lớp trước đã sinh ra mình và lớp sau do mình sinh ra” .
Như vậy, trong bất kỳ xã hội loài
người nào, ở bất kỳ nước nào trên Trái đất, theo quy luật của tự nhiên và xã hội đều tồn tai ba thế hệ người: (i) Thế hệ trẻ: từ trẻ sơ sinh đến hết tuổi thanh niên. Ở Việt Nam, theo Luật Trẻ em năm 2016 thì trẻ em có độ tuổi từ 0 đến dưới 16 tuổi và Luật Thanh niên năm 2020 thì thanh niên có độ tuổi từ đủ 16 đến 30 tuổi. Như vậy, thế hệ trẻ
người Việt Nam có độ tuổi từ 0 đến 30 tuổi; (ii) Thế hệ trung niên: Theo quy ước xã hội thì thế hệ
người trung niên ở
Việt Nam có độ tuổi từ 31 đến 60 tuổi; (iii) Thế hệ
người cao tuổi: Điều 2, Luật Người cao tuổi 2009, quy định: “Người cao tuổi được quy định trong Luật này là công dân
Việt Nam từ đủ 60 tuổi trở lên”.
Phân tích trên
cho thấy, ở xã hội
Việt Nam đã, đang và sẽ tồn tại ba thế hệ
người cùng sinh sống, lao động và học tập. Ba thế hệ này có mối quan hệ hữu cơ, gắn bó với nhau, không thể tách rời nhau. Đó là: Thế hệ trẻ do thế hệ trung niên sinh ra và thế hệ trung niên do thế hệ
người cao tuổi sinh ra; Thế hệ
người trung niên là tương lai của thế hệ
người trẻ tuổi và thế hệ
người cao tuổi là tương lai của thế hệ
người trung niên; ngược lại thế hệ
người trẻ tuổi là quá khứ của thế hệ
người trung niên và thế hệ
người trung niên là quá khứ của thế hệ
người cao tuổi.
3. Mối quan hệ thế hệ người Việt Nam với An ninh môi trường
Bất kể một đất nước nào, một địa phương nào, một cộng đồng nào đều tồn tại một cách khách quan trong môi trường sống. Đó là Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội. Điều đó có nghĩa là có Môi trường thiên nhiên ắt sẽ có Môi trường xã hội và có Môi trường xã hội ắt có tác động lên Môi trường thiên nhiên. Bởi vì, con
người là một yếu tố quan trọng bậc nhất trong Môi trường thiên nhiên. Con
người được hình thành, tiến hóa, phát triển hoàn chính trong môi trường đất, nước, khí hậu…Ba thế hệ
người Việt Nam tồn tại, phát triển trong mối quan hệ hữu cơ với những yếu tố của Môi trường thiên nhiên. Trong xã hội, thế hệ này, nhóm
người này có quan hệ ứng sử với thế hệ khác, nhóm
người khác thì được gọi là đạo đức xã hội. Còn mối quan hệ các thế hệ
người với Môi trường thiên nhiên đã hình thành lên đạo đức môi trường.
Các nhà khoa học và các nhà hoạt động môi trường nhận thức rằng, sự phát triển
bền vững không chỉ cần thiết
cho Môi trường thiên nhiên, mà còn cần thiết
cho Môi trường xã hội. Chình vì vậy, trên Thế giới đã chấp nhận một cách rộng rãi khái niệm về phát triển bền vững. Trong “Báo cáo Brunđtland' của Uỷ ban Môi trường và Phát triển Thế giới (WCED), Liên hợp quốc năm 1987: “Phát triển
bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn thương đến khả năng của các thế hệ tương lai đáp ứng các nhu cầu của họ”. Điều đó cũng có nghĩa là, phát triển
bền vững là đảm bảo
cho Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội cùng tồn tại cân bằng.
Người
Việt Nam sinh sống, học tập, lao động trong các cộng đồng ở nông thôn và đô thị. Bất kể cộng đồng nào, dù là ở đồng bằng, trung du, miền núi, biên giới, hải đảo hoặc ở đô thị đều có mối quan hệ mật thiết với Môi trường thiên nhiên. Môi trường thiên nhiên luôn gắn bó với cộng đồng. Bất kể cộng đồng nào cũng tổ chức sản xuất, kinh doanh và dich vụ có khai thác tài nguyên thiên nhiên và có những tác động lên Môi trường thiên nhiên.
Ba thế hệ
người Việt Nam sống gắn bó mật thiết với Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội. Mối quan hệ hệ đó đã hình thành lên đạo đức xã hội và đạo đức môi trường của
người Việt Nam. Trong khía cạnh nào đó, Đạo đức môi trường có nội hàm tương ứng với An ninh môi trường.
Như vậy, mối quan hệ giữa các thế hệ
người Việt Nam có mối quan hệ hữu cơ với Đạo đức môi trường và An ninh môi trường. Ba thế hệ đó có những tác động tích cực lên Môi trường thiên nhiên, làm
cho An ninh môi trường được đảm bảo. và ngược lại, ba thế hệ ấy có tác động tiêu cực lên Môi trường thiên nhiên làm co An ninh môi trường bất ổn.
4. Cần đảm bảo An ninh môi trường cho phát triển bền vững các thế hệ người Việt Nam
Nghiên cứu của chúng tôi
cho thấy, hiện nay đã có sự khác biệt trong mối quan hệ thế hệ
người Việt Nam đối với An ninh môi trường. Từ xa xưa, ông cha ta đã tổng kết; “Đời cha ăn mặn, đời con khát nước”. Câu ngạn ngữ này, ngày nay có thể được đổi thành là: “Đời cha không ăn mặn, đời con vẫn khát nước”. Tại sao lại có hiện tượng như vậy?
Trước hết, chúng tôi
cho rằng, sự thay đổi đó là đáng mừng hơn lo. Bởi vì, từ những năm 2000 đến nay, Đảng và Nhà nước ta thực hiện cam kết chính trị và cam kết pháp lý “bảo vệ môi trường
cho hôm nay và
cho mai sau” hoặc “không đánh đổi môi trường để lấy phát triển kinh tế”. Kể từ khi thực hiên Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 và Luật Bảo vệ môi trường năm 2020, các luật Phát triển lâm nghiệp năm 2017, Luật Đa dạng sinh học năm 2008, Luật Tài nguyên nước năm 2013, Luật Tài nguyên biển và hải đảo năm 2015,…công tác bảo vệ môi trường có những kết quả khả quan. Các cấp chính quyền, các ngành, các đoàn thể Nhân dân, đặc biệt là các cộng đồng dân cư có nhận thức đầy đủ hơn về quyền lợi và trách nhiệm của mình trong bảo vệ môi trường. Nhiều hiện tượng vi phạm làm
cho môi trường bị ô nhiễm và suy thoái bị dư luận xã hội lên án và pháp luật xử lý đã góp phần làm
cho môi trường phát triển bền vững, An ninh môi trường được đảm bảo.
Việt Nam tham gia đầy đủ, có trách nhiệm với những cam kết quốc tế về bảo vệ môi trường, đảm bảo đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu...
Những phân tích trên
cho thấy, ngày nay, thế hệ
người trung niên và thế hệ
người cao tuổi đã ý thức rõ trách nhiệm của mình trước thế hệ trẻ về phát triển
bền vững đất nước.
Câu hỏi đặt ra là: Đời cha đã không ăn mặn, nhưng tại sao đời con vẫn có thể khát nước? Chúng tôi
cho rằng, việc đảm bảo An ninh môi trường hoặc đảm bảo
cho phát triển
bền vững không chỉ là thế hệ đi trước để lại
cho thế hệ đi sau những loại tài nguyên gì, số lượng và chất lượng của chúng ra sao? Mà cùng với điều đó, điều cần thiết không kém phần quan trọng là thế hệ trẻ
Việt Nam được hai thế hệ đi trước trao truyền
cho mình hệ sinh thái sáng tạo gì? Có thể là: (i) Nhận thức xã hội về bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu; (ii) Kiến thức của xã hội về phát triển
bền vững và An ninh môi trường; (iii) Kỹ năng tham gia bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; (iv) Kiến thức bản địa về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; (v) Xây dựng mạng lưới kết nối xã hội chung tay bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu; (vi) Kinh nghiệm hội nhập quốc tế về bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu.
Đảm bảo An ninh môi trường là tài sản vô giá mà thế hệ đi trước trao lại
cho thế hệ trẻ Việt Nam. Các thế hệ đi trước cần để lại
cho thế hệ đi sau, nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, giàu về số lượng và tốt về chất lượng, và để lại
cho thế hệ tương lai hệ sinh thái sáng tạo
cho phát triển
bền vững Môi trường thiên nhiên và Môi trường xã hội.