Trao đổi - Phản biện » Kinh tế
Việt Nam: Kẻ nghèo ngồi canh "núi của" ở Biển Đông
(14:28:35 PM 03/04/2013)Xin giới thiệu chùm bài viết của tiến sĩ Đặng Xuân Phương, Vụ trưởng, Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam (Bộ Tài nguyên và Môi trường) đã đề cập một cách toàn diện từ vị trí địa lý, điều kiện vật chất, quy mô lãnh thổ, quy mô dân số, đặc điểm dân tộc tới đặc điểm thể chế Nhà nước, để xem xét vấn đề của Việt Nam với Biển Đông (trên cơ sở vận dụng quan điểm lý luận về các thành tố địa – chiến lược cốt yếu đã góp phần tạo ra sự hưng thịnh của các cường quốc trên biển mà A. F. Mahan [1840-1914], một chiến lược gia hải quân người Mỹ đã nghiên cứu, đề ra vào cuối thế kỷ XIX). Chùm bài viết thể hiện quan điểm nghiên cứu của tác giả.
Bài 1 - Việt Nam: Người nghèo ngồi canh "núi của" Biển Đông
Khi tình hình Biển Đông đang gia tăng “sức nóng” một cách nhanh chóng, nguy cơ Việt Nam có thể bị cuốn vào xung đột vũ trang liên quan tranh chấp lãnh thổ là không nhỏ.
Câu chuyện cần xem xét một cách nghiêm túc ở đây là, tại sao trong suốt chặng đường dài của lịch sử dân tộc Việt Nam chưa lúc nào có thể tận dụng được ưu thế ven biển để vươn lên thành một quốc gia có sức mạnh trên Biển Đông?
Ngồi… nhìn khối “của cải”
Từ hơn một ngàn năm nay, vùng biển Đông đã tập trung các tuyến hàng hải quốc tế có mật độ giao thương vào loại cao giữa các nước Đông Bắc Á với các nước Đông Nam Á, Nam Á, Trung Đông, Châu Phi và xa hơn nữa là các nước Tây Âu. Tầm quan trọng của Biển Đông lại ngày càng được khẳng định đối với thế giới do sự phụ thuộc ngày càng tăng của các nước Châu Á-Thái Bình Dương vào nguồn dầu mỏ được cung cấp từ Trung Đông cũng như các nguồn tài nguyên tiềm tàng trong lòng đất dưới đáy Biển này.
Trong khu vực Đông Nam Á nói riêng, không chỉ riêng Việt Nam mà nhiều nước khác đều mong muốn có thể tiến lên vị trí cường quốc nhờ biển. Nhưng không phải quốc gia nào cũng hội tụ các điều kiện và có tiềm năng để thực hiện được mục tiêu này, ngay cả khi có đường bờ biển dài và sở hữu nhiều đảo, quần đảo.
Trong lịch sử văn minh nhân loại, có những quốc gia đã biết tận dụng được vị trí đặc biệt của mình để vươn lên thành cường quốc biển. Thời cổ đại, người La Mã sau khi làm chủ bán đảo Italy cũng đã tận dụng lợi thế này để vươn ra kiểm soát toàn bộ các khu vực lãnh thổ nằm chung quanh biển này và trở thành Đế quốc vĩ đại nhất trong lịch sử nhân loại. Sau này, hai Đế quốc Anh và Mỹ (có tính kế tục nhau) đều đã nổi lên duy trì sức mạnh thống trị biển cả từ những thắng lợi quân sự và quan trọng hơn cả là biết tận dụng những vị trí hiểm yếu trên biển xét về phương diện địa – chiến lược như các eo biển Manche, Gibraltar, Mallaca hoặc các kênh đào Suez, Panama.
Đầu thế kỷ XXI, khi người ta bắt đầu nói nhiều về một nền văn minh mới nổi trên hai bên bờ của Thái Bình Dương, cũng là lúc đất nước Việt Nam chúng ta đang nằm cạnh một khu vực tập trung nhiều mâu thuẫn hàng đầu thế giới về lợi ích quốc gia cũng như sự thiếu tin tưởng vào những giá trị của pháp luật quốc tế.
Vì vậy, vị trí địa lý của Việt Nam trên bên bờ Biển Đông, xem ra vừa thuận lợi nhưng cũng lại cực kỳ nguy hiểm. Điều này cũng giống như ta đang ở ngay cạnh một khối “của cải” có giá trị to lớn nhưng lại chưa có thực lực để chiếm hữu, sử dụng có ích nhất cho mình nên luôn bị kẻ khác nhòm ngó, tìm cách chiếm đoạt và rất dễ xâm hại đến bản thân.
Đại bộ phận dân cư chưa sẵn sàng tiến ra biển
Trong vòng hơn 5 thế kỷ đầu tiên sau khi Việt Nam dành độc lập (thế kỷ X-XV), chắc chắn nếu không có một tiềm lực kinh tế hùng hậu tại vùng châu thổ Sông Hồng (rộng khoảng 15.000 km2) và quy mô dân số đông hơn khoảng gấp 5 lần so với người Chăm thì Đại Việt đã không thể thắng. Và, hình thái địa-chiến lược đối với quốc gia ven biển Việt Nam hẳn sẽ không như hiện nay nếu người Chăm lúc đó có được một vùng đồng bằng rộng lớn hơn và quy mô dân số đông hơn ở Miền Trung.
Thực tế cho thấy một dân tộc dù nhỏ nhưng nếu biết phát huy sức mạnh tổng hợp về quân sự-kinh tế trên biển và biết tận dụng hợp lý các đặc điểm địa thế của đất nước mình thì các quốc gia thù địch dù có quy mô lãnh thổ và dân số lớn hơn, cũng không thể dễ dàng thôn tính.
Dù vậy, cần nói rõ, nếu quốc gia cứ ỷ lại vào những lợi thế đã có sẵn mà không biết chủ động vượt lên trước thì cuối cùng cũng sẽ bị kẻ địch tìm ra cách khắc chế và đè bẹp. Nguy cơ diệt vong vẫn có thể đến không bao lâu sau khi dành chiến thắng.
Trong suốt quá trình lịch sử, quy mô dân cư gắn với yếu tố biển (làm nghề đi biển hoặc sinh sống ở vùng ven biển, hải đảo) của Việt Nam thường thấp hơn khá nhiều so với số dân các vùng còn lại của đất nước.
Trong thời Trung đại, chưa có tới 30% dân cư trên đất nước Việt Nam có đời sống liên quan đến yếu tố biển. Hiện nay, khi nhận thức về tầm quan trọng của biển cũng như các lợi ích kinh tế từ biển mang lại đã lớn hơn rất nhiều thì quy mô dân số các vùng ven biển và hải đảo cũng không lớn hơn là bao nhiêu (Đề án 52 do Thủ tướng Chính phủ phê duyệt năm 2009 về kiểm soát dân số các vùng biển, hải đảo và ven biển cũng đã dự báo quy mô dân số các vùng này từ 2015 đến 2020 vào khoảng 34-37 triệu người, tức là khoảng 35-40% dân số toàn quốc).
Quy mô dân số ven biển Việt Nam cho thấy dù đất nước có được mặt biển rất rộng và rất thoáng nhưng đó chưa hẳn đã là lợi thế và cộng đồng dân tộc chưa sẵn sàng để trở thành một cộng đồng mạnh về biển. Sự thiếu khả năng liên kết các vùng ven biển một lần nữa đã minh chứng cho hạn chế mang tính tất yếu về phân bố quy mô dân số gắn với lợi ích của biển.
Lãnh thổ như “nhà siêu mỏng”
Với quy mô lãnh thổ không lớn nhưng lại có cấu trúc địa hình phức tạp, dải đồng bằng ven biển bị cắt bởi nhiều dãy núi ăn ra sát biển nên suốt dọc miền Trung, hầu như không có một vùng đồng bằng nào đủ lớn cho phép tạo sức mạnh kinh tế đáp ứng nhu cầu của 5% dân số Việt Nam.
Trong số các đô thị được coi là lớn nằm ven biển miền Trung như Huế, Đà Nẵng, Quy Nhơn, Nha Trang, không có thành phố nào có kinh tế cảng biển đóng vai trò chủ lực của vùng. Các thành phố này đều rất khó có khả năng trở thành đầu kéo cho sự phát triển kinh tế biển của Việt Nam.
Và, cho dù Chính phủ đã quy hoạch đến 15 khu kinh tế ven biển đến năm 2020 để tạo tiền đề phát triển các đô thị công nghiệp, hàng chục sân bay, hàng chục cảng biển (và các dịch vụ hỗ trợ liên quan đến kinh tế biển) thì khả năng tạo ra được mối liên kết, hỗ trợ lẫn nhau giữa các khu kinh tế này là rất khó khăn và có nguy cơ lặp lại tình trạng đầu tư dàn trải, thiếu hiệu quả.
Nguyên nhân của vấn đề này là do địa hình miền Trung thiếu vắng không gian bằng phẳng, rất khó phát triển được các ngành, lĩnh vực hậu cần kinh tế biển cũng như khó khăn nghiêm trọng cho liên kết vùng ven biển với các vùng kinh tế khác.
Nói tóm lại, lợi thế mặt tiền của biển đối với nước ta đến nay chưa thể khai thác. Tình thế không khác nào dù có vị trí đất nằm ngay trên phố lớn, đường to nhưng một khi đã là “nhà siêu mỏng” thì không thể sinh hoạt thoải mái hoặc kinh doanh có hiệu quả.
Bài 2: Những bất lợi về kinh tế, quân sự ở vùng Biển Đông
Bạn cũng có thể quan tâm:
-
Có thể ”để dành” tín chỉ carbon để bán giá cao hơn?
-
Tín chỉ carbon trở thành ”tiền tươi thóc thật”
-
Việt Nam đã nhận 1.200 tỉ đồng từ bán tín chỉ carbon rừng
-
World Bank hủy tài trợ ở Nha Trang, nhiều hệ lụy
-
Chuyên gia lên tiếng về việc "xén" đất Vườn quốc gia Tam Đảo làm dự án
-
Công trình hơn 200 phòng khách sạn trong Vườn quốc gia Tam Đảo là rất lớn
-
Việt Nam thu nghìn tỷ đồng từ bán tín chỉ carbon
-
World Bank cảnh báo gì khi hủy tài trợ 10 triệu USD tại dự án ở Khánh Hòa?
-
World Bank hủy tài trợ 10 triệu USD dự án môi trường bền vững tại Nha Trang
Bài viết mới:
- Vấn đề quản lý an toàn phòng cháy chữa cháy là cực kỳ cần thiết, rất cần những phương án nghiên cứu hoàn thiện việc sử dụng pin xe điện (03/08/2025)
- Thêm 46 cây cổ thụ của 5 tỉnh, thành phố lọt vào danh sách Cây Di sản Việt Nam (26/07/2025)
- Quản lý và công nghệ xanh hướng tới phát triển bền vững và phát thải ròng bằng o (26/07/2025)
- Ban Cộng đồng Bền vững VACNE Đổi mới và Mở rộng hoạt động (23/07/2025)
- Các Hội viên và tổ chức Hội VACNE cần nỗ lực đăng ký thực hiện các nhiệm vụ NCKH trong thời kỳ mới (23/07/2025)
- PGS.TS Vũ Thanh Ca: Cấm xe máy Vành đai 1 Hà Nội: “Hiểu đúng về ô nhiễm, sinh kế và những ‘nút thắt’ cần tháo gỡ” (23/07/2025)
- Chuyên gia Hội BVTN&MT Việt Nam khảo sát, tư vấn cứu Cây Di sản bị gãy đổ ở đình Kim Quy (05/07/2025)
- Tiến sĩ người Việt tham gia Hội đồng Cố vấn Toàn cầu về Cảnh báo Thiên tai ở Châu Âu (05/07/2025)
- Chủ động ứng phó – nâng cao năng lực xử lý tràn dầu tại cảng nghi sơn (03/07/2025)
- VACNE quyết tâm vượt khó cùng đất nước bước vào kỷ nguyên vươn mình của dân tộc (03/07/2025)

Vấn đề quản lý an toàn phòng cháy chữa cháy là cực kỳ cần thiết, rất cần những phương án nghiên cứu hoàn thiện việc sử dụng pin xe điện
(Tin Môi Trường) - Bài viết là khái quát ý kiến phản hồi của GS.TS.NGND Đặng Kim Chi, Phó Chủ tịch Hội BVTN&MT Việt Nam về câu hỏi khảo sát mới đây, của bạn Gia Hân, sinh viên Trường Đại học Công nghệ TP Hồ Chí Minh. Xin trân trọng giới thiệu về nội dung ý kiến này cùng bạn đọc.

PGS.TS Vũ Thanh Ca: Cấm xe máy Vành đai 1 Hà Nội: “Hiểu đúng về ô nhiễm, sinh kế và những ‘nút thắt’ cần tháo gỡ”
(Tin Môi Trường) - Dự kiến từ năm 2026, Hà Nội sẽ bắt đầu cấm xe máy lưu thông trên tuyến đường Vành đai 1 - một chủ trương nhằm giảm tải ùn tắc, cải thiện môi trường. Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng cần nhìn nhận kỹ hơn các yếu tố khí tượng đặc thù của Hà Nội, tác động xã hội - sinh kế và tính khả thi của hạ tầng giao thông công cộng trước khi “siết” xe máy. Trao đổi với chúng tôi, PGS.TS Vũ Thanh Ca – Giảng viên cao cấp Khoa Môi trường, Trường Đại học Tài nguyên và Môi trường Hà Nội - chia sẻ góc nhìn khoa học về nghịch nhiệt, vai trò “cứu cánh” của xe máy, rủi ro xe điện và gợi ý lộ trình phù hợp cho bài toán giao thông đô thị bền vững.

Cần làm rõ chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân
(Tin Môi Trường) - Ngày 20/5/2025, Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tổ chức Hội thảo góp ý Dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013. Tiến sĩ- Nhà văn Trần Văn Miều, Phó chủ tịch Hội Bảo vệ TN&MT Việt Nam đã có bài phát biểu, đóng góp ý kiến. Xin giới thiệu toàn văn bài phát biểu.
.jpg)